Thời thơ
ấu
Khi tôi mười năm, mười
sáu tuổi cha đã ngoài năm mươi. Tuổi trẻ học hành cả ngày đặt mình nằm là lăn
ra ngủ một mạch đến sáng. Lúc đó cha tôi đã đến độ ít ngủ. Có lần ông bảo:
- Trông thấy con ngủ
bố thèm. Bố có nhiều chuyện muốn kể cho con biết.
Trong hơi ấm ổ rơm, bố
con cho chân vào chiếc bao tải, rồi trùm chiếu lên cho kín đầu. Bố tôi hỏi:
- Hôm qua đến đâu rồi?
- Dạ đến chỗ ông Hồ lên
tàu đi ngược.
- Ờ... ờ... khoảng mấy
năm sau, có một người rẽ về nhà mình tìm gặp bố. Người ấy nói là ban với ông
mình (ông Hồ). Ông còn cho biết ông mình đang ở chợ Chu
Định Hóa - Thái Nguyên, và ông có gửi cho bà số tiền là mười đồng bạc để trả nợ
và chuộc lại nhà. Lúc này bố đã không còn là thằng Nhỏ, cụ Men giao cho đứng
đầu cánh thợ.
Xã ta người theo học
nghề này khá đông. Ở làng Đại có ông Tân, ông Khường, ông Biếm. Ở làng Bến có
ông Nhàng, ông Vinh, sau này có bác Thặng, bác Quảng... vài năm sau bố lấy mẹ
con.
Tôi hỏi: "Làm sao
bố lấy được mẹ?".
Cha tôi lặng yên một
lúc rồi nói.
- Đáng ra bố không lấy
mẹ con bây giờ. Hồi trẻ bố thích một cô ở gần nhà có tên là Xếp. Nhưng một lần
đi xem hội bố thấy cô ấy ăn mặc lôi thôi quá nên bố không thích nữa. Cũng là
cái số. Mẹ con là nhà khá giả, nhà mình lại nghèo. Ngày xưa muốn lấy vợ phải sau
lễ mấy năm người ta mới cho cưới. Cũng nhờ có cụ Men coi bố là con nuôi nên bố
mới lấy được vợ. Mẹ con ngày xưa xinh, cao ráo, trắng trẻo, không nghễnh ngãng
như bây giờ.
Tôi ngắt lời cha tôi:
"Tại sao mẹ con lại bị điếc?".
- Điếc mà còn sống
được là may lắm rồi!
Trước năm bùng nổ
kháng chiến (1946) bố và mẹ có một lần lên thăm ông, ở chợ Chu.
Lúc đi còn ô tô, xe ngựa. Lúc về ta đánh nhau với Pháp, xe cộ không có, bố mẹ
phải đi bộ từ chợ Chu về nhà. Chân mẹ còn sưng
tấy lên to như cái cột nhà. Tối nào vào nhà dân nghỉ nhờ cũng phải đun nước
ngâm chân, sáng hôm sau mới đi được. Hai vợ chồng "cuốc" ròng rã tới
nửa tháng mới về được đến nhà. Lần gặp ông bố mới biết ông đã có bà hai.
Bố tôi ngồi dậy hút
điếu thuốc lào. Giường bên, mẹ tôi vẫn ngủ. Ông kể tiếp:
- Cũng sau lấn ấy mẹ
con bị ốm, sốt rất cao. Người như điên dại trèo lên cả mái nhà. Cụ Men bảo bố
ra đào ngó sen, rửa sạch đun nước cho mẹ con uống. Quả nhiên mẹ con đỡ dần. Khi
tỉnh ra bà có kể trong cơn mơ chỉ thấy khát nước. Bà lang thang đi tìm chỗ có
nước. Bỗng có một khe suối nhỏ, bà khum tay hứng mãi mới được một giọt. Bà hứng
cả ngày, hứng mãi môi vẫn rộp lên vì khát. Rồi có một người rủ bà đi. Bà bảo
tôi phải về với chồng với con tôi. Quả nhiên sự kiên trì hứng nước đã làm bà
bừng tỉnh. Cơn khát đã đi qua, cơn sốt cũng hết. Cái giống ngó sen mà quý đến
thế con ạ. Liều thuốc của cụ Men đã cứu được mẹ con. Không có cụ làm sao có các
con bây giờ.
Trong đêm leo lét ngọn
đèn dầu, tôi lắng nghe lời cha kể như nuốt từng lời.
- Còn chuyện cụ mình
lấy bà hai ngày mai bố kể tiếp. Ngủ đi sáng mai còn dậy học!
Thời bấy giờ cha tôi
công việc đã nhàn hơn. Hàng ngày ông trông nom kỹ thuật, các thợ em làm. Nhưng
đất nước có chiến tranh, đời sống có nhiều khó khăn dần nên nghề xây dựng ít
việc. Tôi chỉ biết nhiều lúc cha tôi ngồi trầm tư và thở dài. Hôm nào thấy ông vui
tôi lại giục cha kể tiếp.
- Ừ nhỉ... lần trước
bố nói tới đoạn ông nội con lên ngược lấy bà hai.
Chuyện cũng từ toa tàu
muối. Người chủ muối đã cho ông ở trong toa chở hàng. Sau một ngày đêm tàu vào
ga hiu hắt lắm. Xung quanh toàn rừng núi. Ông thấy những người mặc áo chàm
xanh, chân quấn xà cạp, họ đến đổi muối. Nhưng không phải bằng tiền. Cứ mỗi một
gùi muối họ đổi bằng một đồng bạc hoa xòe (loại tiền mà hiện nay không nhìn
thấy). Họ nói với nhau bằng thổ ngữ nên ông mình không biết. Gần trưa đống muối
đã vãn, ông thấy có một người đàn bà. Người này nói tiếng kinh, ông tìm cách
đến gần hỏi:
- Cô ở đâu?
- Tôi ở chợ Chu.
- Chợ Chu cách đây có
xa không?
- Đi bộ cũng mất hai
ngày.
- Cô chở làm sao hết
số muối này về chợ Chu?
- Tôi thuê xe ngựa.
- Anh có người quen ở
chợ Chu?
- Không! Tôi lần đầu
tiên đến đây.
Người đàn bà chằm chằm nhìn vào mắt ông mình.
- Tôi trông anh cũng
hiền lành. Anh giúp tôi lúc nữa sẽ có xe ngựa, ta đưa muối lên rồi theo xe về.
Ông mình gật đầu, còn
nhanh tay vét cả số muối sạn trên toa tàu cho bà.
Chợ Chu thời đó đã là
căn cứ cách mạng. Giặc Pháp đã nhiều lần tràn lên đánh nhau với Việt Minh.
Đường sá lúc ấy còn nhỏ hẹp. Rừng núi âm u hoang vắng. Ông mình có nói với bố
cảnh bản nghèo, heo hút. Ông bảo dân khổ lắm họ phải đốt cỏ tranh lấy gio cho
vào nước lọc lấy chất mặn thay muối. Họ nuôi được con lợn phải mất một năm. Một
hôm, ông vào bản thấy con lợn nằm mà chuột khoét mất cả bên mông cũng không
đứng dậy. Họ nuôi lợn để ăn, không bán. Vì họ không biết tiêu tiền. Phải tới
nhiều năm ông đi theo người đàn bà này để đổi muối lấy bạc. Ông bà ăn ở với
nhau có một mái nhà dưới gốc đa. Lúc bố lên thăm ông cây đã to lắm. Hai người
sau này sinh được một cô con gái có tên là Hậu. Ở nhà cô lớn là Hiền. Tôi ngắt
lời cha tôi.
- Có phải cô tên hồi
nhỏ là Gái không?
- Phải rồi! Bố nợ cô
một cây mía de không mua cho em được...
Nói đến đây cha tôi
rơm rớm nước mắt.
Trong nhiều năm cha
tôi làm phó cả, hình ảnh người cha trong bộ quần áo nâu bạc, có hai túi phía
trước, tay cầm con dao xây, cái thước cứ hiện lên không phai mờ trong tâm trí.
Cha tôi thích đọc Kiều, tôi không sao quên được những buổi chiều mưa, thợ nghỉ
việc, ông ngồi ngâm Kiều, mắt người nhìn ra xa - Những hạt mưa đan chéo nhau
trắng cả bầu trời.
Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền
ai phấp phới cánh buồm xa xa
Buồn
trông dòng nước mới sa
Hoa trôi
man mát biết là về đâu
Buồn
trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây
mặt nước một màu xanh xanh.
Lúc đó tôi ngồi trong
lòng ông, lặng nghe những âm thanh trầm bổng như tiếng đàn bầu, những âm điệu
của câu thơ đã thấm vào hồn tôi từ thủa ấy.
Gần những năm hòa bình
ở miến Bắc (1954), thực dân Pháp lấy đình làng để làm bốt. Tường đình chúng đục
lỗ Châu mai, chúng xây lô cốt giáp chân đê để khống chế Việt Minh đánh trả. Nhà
tôi có một bể nước ăn nằm nghiêng nghiêng gần ao Hàng Gà. Dây thép gai rào
quanh đồn, rào chùm lên cả bể nước. Họ chỉ để lại một lỗ nhỏ, rộng hơn gáo múc
nước. Tôi nhiều khi vô ý lấy nước còn bị gai thép đâm thủng bàn tay.
Thời gian này cha tôi
và anh em thợ bị bắt đi xây Lô Cốt ở Thiết Trụ. Đêm về ông kể cho tôi nghe
những chuyện hàng ngày được chứng kiến. Cảnh hành hình dã man những chiến sỹ du
kích bằng cách chặt đầu như thời Trung cổ. Cha tôi nói: "Khi những cái đầu
rơi xuống máu phun ra, thân người còn nhảy lên cao hàng mét". Những cảnh
xuyên dây thép vào tay Việt Minh rồi đẩy xuống sông Hồng. Nhìn thấy cảnh ấy cha
tôi thường thở dài ao ước đến ngày hòa bình để hết đầu rơi máu chảy.
Một buổi trưa, khi tôi
còn đang lang thang trên sân nhà, ngồi lấy măng tre để câu công cống, bỗng có
một người cõng cha tôi về. Người khách lạ nhẹ nhàng đặt cha tôi xuống giường.
Tôi hốt hoảng nhìn người ông đầy những vết thâm tím. Người khách lạ bảo tôi:
"Đi gọi mẹ cậu về, lấy lá chờm cho ông ngay. Ông bị đánh rất đau".
Tôi ôm lấy cha tôi òa lên khóc. Hồi lâu cha tôi mới khẽ mở mắt vẫy tay ra hiệu
lấy nước mời khách lạ.
Sau này tôi mới biết
trận đòn ấy do Thiếu úy Lực trưởng đồn Văn Giang gây ra. Lực đã từng là Đại đội
trưởng của ta, hắn phản bội cách mạng chạy sang địch. Huyện Văn Giang thời đó
đã bị vỡ rất nhiều cơ sở bí mật của Đảng. Những chiến sĩ Cộng sản, những người
Du kích kiên trung đã bị bắt hàng loạt và bị hành hình. Bốt Văn Giang có trại
lính đóng ngay trong đình Bến, xã Phụng Công. Nằm áp phía sân đình có một Giảng
Võ. Trưởng đồn Lực ngủ ở đây. Do mái Giảng Võ
lợp ngói ta lâu ngày đã bị rột, hắn bắt cha tôi và chú Tân phải lợp lá
xong trong một ngày. Nhưng đến gần tối hai anh em làm vẫn chưa xong. Đúng đêm
ấy trời lại đổ mưa rào, giường của hắn bị dột, giấy tờ bị ướt hết. Sáng hôm sau,
cha tôi và chú Tân đến làm tiếp đã bị hắn đánh luôn cả hai hai người. Những đòn
roi bằng cán Ba toong đã giáng xuống người cha tôi. Riêng chú Tân hắn còn cho
chó Tây cắn vào người để lại những vết thương khủng khiếp. Vài tháng sau chú đã
qua đời trong những cơn ho thổ ra máu của những di chứng những trận đòn. Cha
tôi tiếc cho tài năng của chú, ông là người thợ tài hoa nhất vùng này. Hiện nay
ở chùa Bến ở xã Phụng Công vẫn còn những bức đắp vẽ của ông. Mỗi lần tôi đứng
nhìn những bức họa tiết sinh động có con chim như đang hót trên cành lại chạnh
lòng nhớ chú, nhớ cha và lòng căm thù giặc lại ứ đầy huyết quản...
Tháng 7 - 1954, Hiệp
định Giơnevơ đã đem lại hòa bình cho miền Bắc. Nhưng ở Văn Giang phải tới cuối
năm mới thực sự không còn bóng Thực dân Pháp. Năm ấy nước lên rất to, tôi đứng
trên bờ đê khỏa chân xuống nước. Trong tiếng tù và, tiếng trống giục giã, người
người hộ đê ken nhau đứng kín mặt đất. Tôi để ý trong đám người này còn những
người lính Lê Dương màu da đen bóng. Bây giờ họ đã không cầm súng bán giết dân
mình ghê sợ như ngày trước. Khuôn mặt họ nhìn dòng nước mênh mông cũng đầy lo
âu như người dân Việt. Cảm xúc này tôi đã viết "Bức tranh quê" trong tập Hương
Rau Khúc - NXB Hội nhà văn - 2005. Nhưng cũng năm ấy, người dân quê tôi
từng ngày phải đối mặt với nghèo đói. Chính phủ cụ Hồ đã đưa cán bộ đến tận
làng, xã để vận động nhân dân tìm cách chống đói. Mẹ tôi đi họp nghe phổ biến
đào đất đặp ụ để trồng khoai lang. Ở đâu đấy người ta đã trồng được củ khoai
nặng hàng yến. Ừ thích nhỉ? Tôi há mồm ra nghe. Trong khi cha tôi gật gù rồi
ông cười bảo: "Toàn chuyện lạ! Con người có được ăn thật nhiều cũng chẳng
thành con bò".
Thế rồi một buổi
chiều, ông sai tôi đi mua hươu rượu và một gói lạc. Tôi nhìn cha có bữa
"nhậu" lạ nhưng không dám hỏi. Uống xong ông bảo tôi: "Con đứng
ở đây bố bảo gì con làm. Không được đến gần". Hóa ra cha tôi đi phá dây
thép gai để khai khẩn ruộng đất lấy nơi trồng trot.
Cha tôi buộc dây thừng
vào hàng rào kẽm gai, đứng xa rung mạnh cho mìn nổ. Rồi ông lấy kìm cắt từng
đoạn dậy thép. Nhìn những lớp cỏ gianh cao ngập đầu ở ngay ngõ nhà mình đã được
tháo gỡ hàng rào lòng tôi trào lên xúc động. Phút đầu tiên có cảnh quê hương
thanh bình lại từ cửa ngõ nhà mình. Ngày mai hết bom mìn rồi, bọn trẻ chúng tôi
tha hồ chạy nhảy. Cũng phút ấy tôi mới hiểu cha tôi có bữa nhậu lạ. Ông lấy
rượu để quên đi sự nguy hiểm. Vài tháng sau, phần đất cha tôi khai khẩn đã cho
vụ thu hoạch đầu tiên. Khoai nhiều quá! Khoai chất đầy gầm giường. Ngày ấy, cái
cảm giác no trong mỗi bữa ăn nhưng vẫn thèm cơm ghê gớm. Bọn trẻ chúng tôi đi
vào các vườn để tìm hoa quả chín và săn bắt chim chuột. Những thứ đó đều được
"chế biến" theo kiểu cho vào lò nướng. Lò là một cái hầm đất đào tròn
như quả bóng. Lũ chim chuột sau khi được hạ ngục chúng tôi lấy đất bùn tươi nắm
thành nhiều lớp rồi cho vào lò đốt. Khi nào vỏ đất có màu hồng là lũ chim chuột
đã chín nục, dậy mùi thơm ngon.
Những năm đầu hòa bình
ấy như một dấu ấn trong ký ức tuổi thơ tôi. Còn nhớ nhà tôi mái tranh bức vách
có hai cột bằng tre. Trời mưa những tiếng nước mưa rơi từ mái nhà kêu tong tong
xuống sanh nồi cha mẹ tôi lấy ra hứng nước.
Những tiếng kêu nghe
vui tai nhưng nghe lâu lại dư âm những điệu buồn nhà dột. Sau này tôi viết bài
thơ Tiếng võng để tặng mẹ, trong sâu
thẳm có cảnh nhà như thế.
Mẹ ơi thương
mẹ bao năm
Xa con
mẹ có dám nằm võng đâu
Kèo nhà
mục đã từ lâu
Có hai
guốc võng hai đầu còn nguyên.
Cũng trong ngôi nhà
ấy, một đầu hồi quay về hướng tây, mưa gió to làm từng mảng vách đất tụt xuống,
trơ những khung tre như xương con cá khổng lồ. Bụi tre giáp hồi nhà trước kia
bị giặc Pháp chặt hết bây giờ đã vụt lên thành những ngọn mới. Phải lâu lắm rồi
tôi đột ngột nhìn thấy một chú chim chèo bẻo có cái đuôi cong cong đứng vắt vẻo
trên ngọn tự do hót tung trời. Tiếng chim nghe vừa quen vừa lạ. Phải rồi, chim
hót báo một ngày mới đất nước thanh bình. Tôi lắng nghe âm điệu của chim để sau
này ghi lại những câu thơ từ lời chim
ngày ấy.
Vắt vẻo
cành tre
Chim
chèo bẻo
Chiếc
cần câu
Mùa hè.
Gọi tuổi
ấu thơ
Cái phao
ngô đồng dậy.
Chim đây
ta đấy.
Quanh ao
nhà tha thẩn chim chơi.
Cũng những năm đó
chúng tôi bắt đầu cắp sách tới trường. Lớp học được tổ chức ngay trong các đình
chùa. Tôi học lớp vỡ lòng về nhà cứ o a đọc loạn. Cha tôi bảo: "Con lấy
que viết chữ lên sân đất cho chóng thuộc lại đỡ tốn giấy mực". Trên sân
đầy lỗ công cống. Tôi nhìn thấy măng tre đã lớn thành cây tre tỏa bóng xuống
chỗ học bài. Và lũ chim trời cũng đông dần, chiều chiều kéo nhau ríu ran trên
cành biếc.
Một buổi trưa đột ngột
nhà tôi có khách là một anh bộ đội còn rất trẻ. Anh được cha tôi mời vào nhà.
Tôi để ý anh giấu mấy quả mìn vào bụi tre, quả nào cũng lấm lem bùn đất, anh
lấy từ trong túi rết một nắm cơm rồi nói với cha tôi: "Gia đình ăn giúp,
em đủ rồi". Cha tôi đỡ nắm cơm đặt trên bàn rồi rót nước mời anh. Anh bộ
đội có nước da dám nắng thỉnh thoảng cứ nhìn tôi cười tủm. Hồi lâu anh hỏi nhỏ:
- Em có mấy cái quần
đùi?
- Dạ... em có hai cái.
- Nước mình nghèo quá
.....Có hai cái mà lại rách mất rồi!
Hình như anh rơm rớm
nước mắt khi bàn tay tôi nghịch ngợm đang xòe ra che vảo mảng mông vừa bị gai
bờ hàng cào toạc. Cha tôi lúc ấy lại thong thả hút điếu thuốc lào, ông bảo:
"Thế là sướng lắm rồi, hòa bình ăn cháo, ăn rau cũng sướng".
Quả vậy, không có niềm
vui nào vui hơn niềm vui quê hương được thanh bình. Đêm đêm, dưới ánh trăng
vằng vặc, các anh, các chị lớn tuổi cầm tay nhau múa hát sân đình. Những bài
hát "Qua miền Tây Bắc", "Giải phóng Điện Biên" cùng những
điệu múa sạp người lớn hát, trẻ con chúng tôi cũng thuộc.
Đêm trăng như biết lay
động lòng người không ai muốn ngủ. Nhà nhà gọi nhau ăn củ khoai luộc cười nói
râm ran chan chứa ân tình.
Trưa hôm sau, trên
đường đi học về nhà, chúng tôi hốt hoảng nhìn thấy một chiếc cáng, người khênh
cáng là hai anh bộ đội. Chúng tôi nhìn thấy những vết máu nhỏ rơi xuống đường.
Tôi chạy vụt lên đuổi theo chiếc cáng, một khuôn mặt quen quen? Đúng rồi! Anh
bộ đội vào nhà mình. Trưa hôm qua anh đã cho nắm cơm. Tôi định gọi anh nhưng
chẳng biết anh tên gì. Hai mắt anh vẫn nhắm nghiền và những giọt máu của anh
vẫn rơi xuống đường làng từng giọt, từng giọt đỏ như màu cờ, sau này mọi người
phủ lên chiếc quan tài anh yên nghỉ.
Chiều hôm ấy, cha tôi
nắm một nắm cơm và một quả trứng đặt lên trên bể. Sau đó ông thắp hương khấn
gọi anh về. Cha tôi bảo: "Anh đã chết về mìn của địch gài ở bốt Ao Sầu
(Thời đó chưa nói từ hi sinh). Tôi ngây thơ hỏi: "Hòa bình rồi bộ đội sao
không về nhà vẫn phải chết?”. Cha tôi bóc quả trứng đưa tôi ăn, ông nói nhỏ:
- Các anh ấy sống để
dân yêu, chết đi dân nhớ. Bố đã cúng để vong anh ấy về thanh thản.
Lại thế ư? Anh đi đâu?
Anh về đâu? Tôi làm sao quên được nụ cười của anh, và cái lần hỏi chuyện với
tôi mắt anh rơm rớm. Người chiến sĩ công binh đầu tiên ấy đã hy sinh trong một
lần tháo gỡ mìn, để lại trong tôi bao nhiêu yêu mến. Sau này, tôi có hơn 20 năm
đời lính, được chứng kiến rất nhiều đồng đội hi sinh, mới thấm thía hạnh phúc
của đất nước thanh bình...
*
Anh trai tôi lấy vợ là
cả một câu chuyện buồn. Lúc đó tôi còn một cô em gái nhỏ kém tôi 3 tuổi. Em
trắng trẻo, bụ bẫm, má lúc nào cũng hồng hồng thật xinh. Mẹ tôi dành dụm bán cả
một đôi gà mới mua được cho em một chiếc váy màu trứng sáo. Mỗi khi nó mặc vào
cha tôi có bận đến mấy cũng bế trên tay một lúc. Hàng ngày, cha mẹ đi làm, tôi
đi học, em tôi chơi tha thẩn một mình. Em hái lá dâm bụt xếp vào rổ để đợi tôi
về chơi bán hàng. Cũng có lúc chúng tôi chặt tàu chuối trả vờ làm lều làm quán.
Quán
hàng có gặp cơn mưa
Le te lá
chuối che vừa cho nhau.
Có khi chúng tôi chơi
mãi cha mẹ vẫn chưa đi làm về, bụng đói quá em tôi phụng phịu khóc làm tôi cũng
khóc theo.
Trước ngày anh tôi
cưới vợ, trời bỗng đổ mưa rào. Tôi gấp giấy làm thuyền rồi thả xuống "sông"
trước hiên nhà. Em tôi vừa đuổi theo vừa cười như nắc nẻ. Những con thuyền tẻo
teo của tuổi thơ chỉ bồng bềnh được một lúc rồi chìm nghỉm mất hút trong dòng
nước cuồn cuộn. Mưa thả bong bóng nổi đầy mặt sông. Chúng tôi giơ tay vớt bong
bóng, nhưng cái nào cũng chỉ vừa chạm vào là đã nổ tan. Bong bóng nhiều như thể
ai ở trên trời vung tay ném xuống mặt nước. Trò chơi vớt bong bóng thật thú vị
và cuốn hút. Tôi bất chợt nhìn thấy em gái tôi đôi môi đã tím gắt. Vào nhà đi
thôi! Tôi kéo em vào trong buồng thay quần áo và làm khô đầu. Nhưng lạ chưa?
Hai mắt em tôi bỗng lờ đờ. Tôi chạy đi gọi cha mẹ về. Em tôi đã đắp chăn và lịm
đi trong cơn sốt.
Ngày hôm sau họ hàng
đã lục đục đến mừng bắc rạp và mổ lợn. Mẹ tôi vẫn ôm em bé trong lòng. Em tôi
cư mê man, người nóng như hòn than trong lò. Đến chiều, một ông lang người Tàu
cho em tôi uống một lọ thuốc sau những cơn sài giật. Ông lắc đầu nói nhỏ với
cha tôi: "Hỏng rồi! Cháu bị cảm hàn". Cha tôi cúi đầu tạ ơn ông, hai
mắt đỏ ngầu cố kìm trong lòng tiếng khóc.
Họ hàng mang em tôi đi
trong đêm. Em được bó trong chiếc chiếu nhỏ. Chao ôi! Tôi rụng rời và gào lên,
định chạy theo những người cầm đuốc vác mai, nhưng bị mọi người gạt lại.
Trong khi đó chị dâu
tôi sắp về. Mẹ tôi ngồi như người mất hồn, ai hỏi gì cũng gật đầu, mặt đầm đìa
nước mắt.
Mấy ngày hôm sau, bữa
cơm nào mẹ tôi cũng luộc cho em một quả trứng, đặt trên bát cơm nóng hổi. Mẹ
tôi mếu máo: "Cho em ăn trước. Anh ăn sau". Tôi chờ mẹ thắp hết hương
mới lấy ra ăn. Một buổi sáng, bà thu hết quần áo của em lại thả xuống ao Hàng Gà.
Ngày nào tôi đi học cũng nhìn thấy chiếc váy màu xanh trứng sáo cứ nổi lên lững
lờ, lòng lại nhớ em muốn òa lên khóc.
Cuộc đời em ngắn ngủi
đã đọng trong ký ức tôi biết bao cảm xúc. Tôi làm sao quên được những cơn mưa
bong bóng, những con thuyền giấy mỏng
manh nước cuốn trôi vèo, rồi cái váy xanh màu trứng sáo bập bềnh trên mặt ao
mãi chẳng muốn chìm...
*
Bạn đọc thân mến! Hình
như trong sâu thẳm chúng ta có hai con người mà tuổi thơ ta yêu nhất đó là mẹ
và bà ngoại. Tôi xin dành những trang viết này để nói về bà ngoại của mình.
Thủa nhỏ tôi thấy rất lạ, mỗi lần ru tôi bà hay hát câu.
Chiều
chiều ra đứng ngõ sau
Trông về
quê mẹ ruột đau chín chiều
Lớn lên nghe mẹ tôi kể
lại mới hiểu được đời bà và lại càng thương bà biết bao nhiêu.
Xa xưa ông ngoại tôi
là một gia đình khá giả. Ruộng của nhà có vài mẫu lại có nghề mổ lợn nên gia
đình lúc nào cũng sung túc. Thời đó, ruộng đồng chỉ có một vụ tháng mười. Những
nhà nhiều ruộng vào mùa gặt đều phải thuê mướn người làm. Dưới ánh nắng hanh
hao, lúa trên đồng mênh mông nhuộm màu mật ong chờ người gặt hái. Một buổi sáng
tinh mơ chưa nhìn rõ mặt người đã có một đoàn người đứng ở đầu làng. Ông tôi ra
mặc cả công sá rồi đưa họ về nhà. Trong tốp người này có một cô gái mặt tròn
trắng trẻo, hai mắt đen đẹp và buồn. Cô gái tên là Sen. Ông tôi để ý cô cứ làm
lầm lũi cả ngày, không nói cũng chẳng bao giờ nhìn thấy nụ cười. Sau một ngày
gặt hái mệt mỏi, cánh thợ gặt được bố trí ngủ dưới nhà ngang. Ông tôi cẩn thận
cất giữ những bó rơm cũ từ mùa trước để rải ổ cho thợ nằm. Ông để ý cô gái có
khuôn mặt tròn ấy bao giờ cũng nằm ngoài. Nhiều đêm ông thấy cô nằm co quắp
không có chiếu. Bởi chiếu thì chật, người lại đông. Động lòng thương, ông lên
nhà lấy một cái chiếu khác, nhẹ nhàng đắp lên cho cô. Cô gái ngồi dậy nói nhỏ:
- Ông chủ chưa ngủ ạ?.
- Không... tôi sắp
phải làm hàng, cô ngủ đi.
- Em lạ nhà chưa ngủ
được.
- Em lạ nhà hay em
lạnh?
- ...
- Ừ nhỉ! Gà chưa gáy,
hãy còn sớm, tôi ghé vào cho em ấm... có được không?.
- ....
Dưới ánh trăng nhờ nhờ
của hạ tuần tháng mười ông để ý thấy cô gái im lặng, từ từ nghiêng mình ngả
lưng vào ổ rơm. Chàng trai to lớn có đôi vai rộng ôm chặt lấy cô gái. Hai người
truyền hơi ấm cho nhau trong hương thơm thoang thoảng của mùa lúa mới.
Đó là cuộc tình lãng
mạn đẹp nhất sinh ra mẹ tôi. Sau vụ gặt ấy, cô gái "bỏ đàn" không về
nhà. Và hình như bà không có dịp nào về quê nữa, bởi loạn lạc liên miên. Nỗi
lòng của bà cứ gửi vào lời ru buồn mỗi lần nhìn về quê mẹ làm người nghe muốn
òa lên khóc.
Sau này bà ngoại tôi
sinh thêm được hai người một trai, một gái. Khi cậu tôi có vợ, chẳng hiểu sao
bà lại dỗi bỏ đi sang ở nhà người bác họ. Tôi đến thăm bà đúng bữa cơm trưa.
Nhìn bà nấu cơm mới giỏi làm sao. Nồi nấu bằng đất nung chứa khoảng hơn bát
gạo. Bếp lửa chỉ bằng rơm, rạ, ngọn lửa làm sao phải thật đều để nồi đất không
bị nứt mà cơm vẫn chín dẻo lại không khê. Bữa cơm của bà tôi đơn giản lắm, chỉ
có một món duy nhất - dưa cải chua nấu với vài chú tép đồng. Lần ấy tan học vừa
độ đói tôi được ăn cơm với bà. Nhìn tôi ăn ngon lành, thỉnh thoảng bà lại giục:
"Ăn thêm tý nữa con" tôi ăn cứ nhoàng một tý là hết một bát. Rồi
chẳng nhớ bà đong bao nhiêu lần, cuối bữa bà chỉ còn một miếng cháy. Trưa hôm ấy tôi về nhà khoe
với mẹ. Mẹ tôi không nói gì, lẳng lặng ra chợ mua hai bát bánh đúc đem vào biếu
bà. Bà cười bảo: "Thằng này nó giống ông ngoại. Ăn khỏe như hổ. Sau này phải giỏi, phải mạnh".
Với tình cảm sâu lặng
ấy của bà, tôi đã viết bài thơ "Mùa lá rụng". Ở đấy thấp thoáng bóng
bà tôi suốt thời thơ ấu.
Bánh
phòng phành bà cho ngày ấy
Thấp
thoáng một thời chợ xa
Thấp
thoáng áo nâu vải Rồng
Bánh
phòng phành tan trong đầu lưỡi
Cả hương
đồng lúa chín đọng trên môi
Lúc tôi ở tuổi chín,
mười đất nước bước sang giai đoạn cách mạng lớn lao - cải cách ruộng đất. Dì
tôi lúc ấy cũng vào tuổi thanh xuân ngoài hai mươi tuổi. Dì đẹp người trắng
trẻo, cao ráo, có mái tóc đen dài như suối, dì có tên là Chín - dì đứng thứ
chín trong nhà. Dì bảo: "Ngày trước loạn lạc dì bế con chạy giặc vẹo cả
xương sườn. Lúc con 6 tháng tuổi tự nhiên ở nách nổi lên một cái nhọt to bằng
quả ổi. Con khóc suốt ngày suốt đêm. Dì với mẹ con thay nhau bế. Cũng may có một người mách bảo lấy ruột quả bí đao
đắp vào. Thế là cái nhọt biến đi mất. Thật sợ ơi là sợ!".
Lúc ấy, tôi ngồi trong
lòng dì khẽ cãi yêu: “Sao dì không để cho con chết đi. Con càng sướng".
- Thằng chó ạ! Cái cầm
lẹm thế này chỉ có lém!.
Tôi ôm lấy dì cười
tinh tích. Vài năm sau dì đi lấy chồng, dì lấy một người có tên gọi là chú Tư.
Chú có nghề đặc biệt câu cá chuối. Làng tôi thời ấy sông ao còn hoang dã, cá
chuối nhiều vô kể. Nhưng câu được chú cá to cũng không phải dễ đâu. Cá chuối
rất thích ăn nhái. Do nhái thịt mềm, lưỡi câu hay bị hở. Chú Tư phải lấy cỏ gà
buộc nút thế nào để khóa lưỡi lại là việc làm rất khó. Khi chú tung vút cần câu
con mồi nhảy chồm chồm trên mặt ao bèo có khi lướt cả trên bè rau muống mà lưỡi
câu cũng không bị vướng. Thế mới tài. Thủa nhỏ tôi cứ theo chú đi câu học mắc
mồi vào lưỡi, chú cười bảo: "Về đi! Cháu phải học chữ, học làm gì cái nghề
này". Ấy vậy tôi vẫn khoái đi câu lắm. Một lần chú giật được con cá quả cụ
to bằng cái cột nhà. Con cá bị mắc câu lồng lộn lên lao vun vút. Lúc ấy tôi
tưởng chú phải vươn cơ bắp, gồng lên để kéo cá. Như không! Đôi tay lực lưỡng ấy
lại mềm dẻo như người đang múa. Chú vào thả cước cho con cá chạy, rồi lại nhẹ
nhàng cuộn lại. Chà chà! Con cá to quá. Cái đầu đen sì đã nổi lên. Mỗi cái vẩy
to như những đồng hào xếp lại. Tôi nín thở xem chú nhẹ nhàng tháo lưỡi. Rồi hai
chú lấy cần câu khênh cá về nhà. Dì tôi đang gội đầu, dì ngẩng lên cười, vuốt
mái tóc dài cho bớt nước. Chao ôi! Lúc đó tôi càng thấy dì đẹp. Một nốt ruồi
nhỏ trên môi phải làm lúc nào dì cũng như đang sắp cười. Chú Tư bảo:
- Tý nữa mình mang ra
chợ. Chợ đang đông đấy.
- Vâng! Anh kiếm cho
em một cái gậy.
Dì cười vẫy tôi:
"Cu chó khênh với dì". Tôi mừng quẩng lên vừa đi vửa rao "Ai mua
cá cụ không!. Ai mua cú cạ không!". Con cá quả dài hơn người tôi, cái đuôi
to như bàn tay người lớn quết xuống đường làng.
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét