Trang

31 thg 8, 2013

Tạp Văn HEO MAY của Lưu Tuấn Kiệt

Kiet Luutuan   08:47 . 30- 8 - 2013
Hớn thân ! Mình gửi tập sách này , hy vọng được bạn đọc đồng cảm. Sách còn chỗ nào chưa được mong anh em đại xá cho.- Lưu Tuấn Kiệt.
Lưu Tuấn Kiệt
 honngv sẽ post dần toàn bộ tập "Tạp văn" này. Mong nhận được NHẬN XÉT (comment) từ các anh các chị cựu quân nhân (CQN) VĐT. 


                  Thay lời mở đầu

Lưu Tuấn Kiệt
như tôi biết

        Đại tá Đinh Quốc Khải
                                                                        (Cán bộ nghiên cứu khoa học) 


Để cuốn hồi ký của Viện có thêm chút nội dung về thơ, tôi điện cho anh Kiệt (đang nghỉ hưu ở Văn Giang - Hưng Yên) gửi cho vài bài thơ tâm đắc và anh đã chọn gửi cho tôi hai bài, đó là các bài thơ anh viết trong lần đi chiến trường từ những năm 1968-1972. Trước khi giới thiệu hai bài thơ của anh, xin có vài dòng viết về Lưu Tuấn Kiệt - về Kiệt thời trai trẻ (còn nay đã ở tuổi ngoài sáu mươi). Anh Kiệt vào bộ đội năm 1966 học trường Trung cao cơ điện (ngành điện xí nghiệp - khoá ngắn hạn), rồi Trung cấp kỹ thuật Ra đa. Anh về Viện Kỹ thuật Quân sự năm 1968, được phân về ban kỹ thuật của phòng nghiên cứu Điện Tử. Giai đoạn này, việc nghiên cứu chống phá từ trường đang rất sôi động và khẩn trương. Cán bộ, chiến sĩ của Viện liên tục đi chiến trường  Quân khu 4 và 559 để phá bom và huấn luyện cho các đơn vị. Lưu Tuấn Kiệt là một trong số những người đi chiến trường nhiều nhất. Nhìn dáng người gày gò của anh, ta thấy lạ là sao anh có sức  chịu đựng dẻo dai như vậy. Có điều đặc biệt là cả ba lần đi chiến trường anh đều phải chứng kiến sự hy sinh của đồng đội mình: cuối năm 1968, anh đi Quân Khu 4 trong đoàn anh Hoàng Kim Giao, tháng 2-1969 anh đi huấn luyện phá bom ở Hà Tĩnh với anh Ngô Trọng Tài, cuối năm 1971 đi Đoàn 559 cùng với Lê Hoài Tuyên. Kỷ niệm về các liệt sỹ trong mỗi lần đi chiến trường ở anh thật sâu đậm! Anh có thời gian ở chiến trường khá dài, đi lại nhiều, chịu đựng bom đạn không ít, nhưng lại không bị thương lần nào. Nói về chuyện này anh cười bảo: “Thì bom đạn nó tránh mình, chứ mình làm sao tránh được nó”.
Kiệt lại là người hoạt bát nhanh nhẹn, ăn nói có duyên, tuy không đẹp trai nhưng thuộc loại “tán” ác, vui nhộn, sống bỗ bã với anh em nên mọi người yêu quý . Chuyện Kiệt lấy vợ thì nhiều người còn nhớ. Cuối năm 1972, Viện sơ tán ở khu Đồi Thông (bây giờ xây khách sạn Khăn Quàng Đỏ) ở gần nhà máy bia Hà Nội. Kiệt được thủ trưởng cho về tranh thủ ba ngày. Qua ba ngày không thấy Kiệt lên, đơn vị lo, thủ trưởng Khánh vò đầu, sốt ruột: Hay là cử người về quê tìm? Hai hôm sau Kiệt về, và dắt theo một cô gái tới gặp anh Khánh nói: “Báo cáo thủ trưởng em lên chậm vì ở nhà bắt lấy vợ. Em đưa vợ em lên đây để trình diện, xin thủ trưởng thông cảm …”. Sau một hồi ngạc nhiên anh Khánh mới bảo: “Việc đã xảy ra rồi, thôi được lần này tha cho cậu, nhưng không có kiểu tiền trảm hậu tấu như vậy nữa đấy!”. Thế rồi anh chúc mừng hai vợ chồng và Kiệt đưa vợ đi chào tất cả anh em. Việc này thật  “tày đình” vì quy định trong quân đội trước khi lấy vợ phải báo cáo và nộp lý lịch cho tổ chức, đồng ý mới được cưới. Vậy mà… chắc hắn bí quá hoá liều! Về Kiệt thì còn nhiều “giai thoại” nữa, nhưng việc anh làm thơ và là nhà thơ là hoàn toàn nghiêm túc. Anh hay suy nghĩ để xúc cảm và nói lên được xúc cảm đó bằng những vần thơ. Anh có những bài rất hay và cả ngay trong những bài thơ bình thường cũng có những câu hay, rất đậm tình người, tình quê.
Do hoàn cảnh gia đình có khó khăn nên anh xin nghỉ hưu sớm. Về quê, với sức vóc làng nhàng của mình anh lại tiếp ttục đi cày để nuôi gia đình và làm thơ. Tôi nói anh đi cày ở đây là với nghĩa đen (theo sau đít trâu) thực sự chứ không phải chỉ là đi chữa đài, chữa Ti vi theo nghề chuyên môn của anh. Sống ở quê tuy vật chất có nhiều khó khăn nhưng tâm hồn thanh thản. Trở về với hàng râm bụt trước cửa nhà, cây gạo đỏ đầu làng, về với những ngày hội quê… và những ý thơ, hồn thơ trong anh vẫn tuôn chảy. Thỉnh thoảng anh có sang Hà Nội thăm anh em và một số anh em có dịp lại sang Hưng Yên thăm anh. Quan hệ giữa anh và anh em cũ vẫn thân mật đầm ấm. Tôi nghĩ rằng cái chất Tuấn Kiệt của anh còn lưu mãi trong lòng bạn hữu!
    Đ. Q . K

               (Trích trong Những trang viết và hồi ký
của Viện Điện Tử Viễn Thông - năm 2005)

HEO MAY - tạp văn - NXB Hội Nhà Văn
 
     Hồi ký


Tìm đến cội nguồn

Nhà tôi trước cửa có cái ao nhỏ tên gọi ao Hàng Gà. Chợ huyện Văn Giang họp vào những ngày 4 - 7 - 9 hàng tháng, ao Hàng Gà có một lối nhỏ thông ra chợ huyện. Thời đó chưa có xe đạp. Những người ở xa đến chợ thường rất sớm. Đầu tiên là tiếng rít giòn vang xa của những chiếc điếu cày người Đồng Tỉnh - Xuân Cầu. Rồi tiếng ngan ngỗng kêu của dãy hàng gà vịt, và người đến chậm chất là ông thầy bói Toại - người Cửu Cao bao giờ cũng đóng đúng bộ khăn xếp áo the với thằng cu nhỏ đi trước cầm gậy dắt bố vào chợ. Ông lão ít nói. Thằng nhỏ làm những động tác thuần thục: rải chiếu, đặt chiếc gậy vào tường đình, rồi kính cẩn mời:
- Thưa thầy ngồi chỗ này ạ!.
Thầy bói khẽ khàng đặt chiếc cháp đen trước mặt lấy ra một cái đĩa với ba đồng trinh vết tay đã mòn bóng.
Chợ bắt đầu ồn ào. Dãy hàng đồng, những sanh nồi, ấm đỉnh, rực rỡ trong nắng. Người ở xa lục đục mang đồ dùng bị hỏng hóc đến hàn. Tiếng búa đe kêu vang chan chát trong tiếng cười của mấy ông thợ hàn vui tính.
Mùi bánh đúc riêu cua của những dãy hàng ăn gần đó bắt đầu bay xa thơm ngạt ngào quyến rũ.
Một cậu bé loắt choắt tay xách siêu nước vối nóng, tay kia cắp chiếc điếu bát đi đến từng cửa hàng vui vẻ mời:
- Ông có dùng nước thuốc không ạ?
- Cô có dùng nước thuốc không ạ?
Chị bán thịt lợn mặt đỏ hồng ngừng tay pha thịt, gật đầu vẫy cậu bé đến gần:
- Rót cho đầy vào.
- Vâng ạ!
- Đưa điếu đây cô hút trước!
Cậu bé nhanh nhẹn bê chiếc điếu bát đặt vào lòng chị, trong đó có bị mang tiền xu vừa bán hàng. Rồi tiếng điếu bát rít lên se sẽ. Hơi thuốc lào thơm say của người Đồng Tỉnh làm cho mắt chị gà gà. Chị uống một mạch hết bát nước vối, tay lấy đồng năm xu đưa cậu bé. Cậu bé cúi đầu cảm ơn, hai tay đỡ lấy chiếc điếu bát. Rồi lại cất giọng đi mời hàng khác. Cậu bé tên là Nhỏ. Hôm nay được ngày trời nắng Nhỏ bán đắt hàng. Mẹ Nhỏ ở nhà đun nước. Em gái của Nhỏ kém anh năm tuổi nhưng cũng đỡ được nhiều việc. Nó biết cho củi vào bếp giúp mẹ. Trời càng nắng to trông nó càng thương. Hai má đỏ hồng mồ hôi ướt đầm. Trông thấy anh chân như con thoi chạy về lấy nước, đầu tiên nó thấy vui vui vì hôm nay đắt hàng nhà ta có tiền đong gạo. Nhưng rồi sau nó sợ. Khi những giọt mồ hôi đã tự khô, đầu nó nóng hầm hập, hai mắt cay sè, đỏ hoe, nó òa khóc: "Em ứ làm nữa đâu". Thằng nhỏ hạ giọng dỗ em: "Cứ cho củi nhiều vào đi. Tí nữa anh mua cho em cây mía de thật ngọt”. Con bé nghe thấy nói có mía nó tươi tỉnh hẳn lên. Nó chạy ra nắm chặt tay anh: "Thật nhé? Không được nói dối em đâu". "Ừ, anh không dối đâu - nhìn đây này - Nhỏ khẽ vỗ vào túi áo nâu - anh thừa tiền đong gạo rồi. Anh mua hẳn hai cây, một cây cho mẹ, một cây cho em. Cho củi vào đi". Nói rồi Nhỏ lại vội vã xách nước chạy ra chợ.
 Nhưng rồi bé đợi mãi chẳng thấy anh về. Tóc cũng ướt đẫm mồ hôi và nồi nước sôi lâu rồi đã cạn. Mẹ bé mấy hôm nay trở trời đầu bà đau buốt không chịu nổi. Bà khẽ gọi: "Con dụi lửa đi. Ra xem anh thế nào?". Bé định chạy ra ngõ đã thấy Nhỏ về. Nó đứng ôm cột ở đầu hè không dám bước vào nhà. Người mẹ ngồi dậy hỏi nhỏ:
- Ấm đâu, điếu đâu con?
Nhỏ mếu máo, nghẹn ngào: "Người ta... Người ta đập vỡ hết rồi. Họ lục túi lấy cả tiền nữa...".
Bà mẹ chợt hiểu ra điều gì, hai tay ôm hai con khẽ dỗ dành:
- Mẹ xin các con.... Mẹ xin các con. Người ta bắt nợ nhà mình. Có phải cái ông mặt đỏ râu dài không?
Thằng Nhỏ gạt nước mắt khẽ gật đầu. Bỗng nó òa lên khóc:
- Mẹ ơi... Mẹ ơi... con sợ ông ấy lắm!
- Rồi nó ôm chầm lấy mẹ. Trong khi đứa em gái ngây thơ vẫn dồn dập hỏi anh: "Mía de của em đâu? Mía de của em đâu?" làm bà mẹ thương con nước mắt lưng tròng.
*
Bố Nhỏ tên là Hồ. Ông đã bỏ nhà ra đi một năm rồi. Sau lần chạy sưu thuế và chứa làng để chạy trai đinh ông có vay của cả To năm đồng. Nhưng rồi lãi mẹ đẻ lãi con, sau ba năm số tiền lên đến 15 đồng. Một buổi chiều ông ra đi sau khi phải cầm cố nhà cửa vườn tược và cả cái ao Hàng Gà mới chỉ được 13 đồng. Còn thiếu của chủ nợ hai đồng. Ông hẹn một năm sau sẽ quay về trả.
Cũng cái đêm đen như mực ấy ông ra đi sau khi phải gửi con ở nhờ nhà người bác họ. Ông nói với bà vợ.
-  Tôi lên ngược kiếm tiền. Mình ở nhà nuôi con có thiếu thì cứ vay mượn, tôi về sẽ trả cho hết.
- Thế mình bỏ mẹ con tôi ư? - Bà vợ ông oà lên khóc.
- Không tôi sẽ về. Tôi chỉ đi vài ba tháng, chậm chỉ một năm thôi... Tôi sẽ chuộc lại nhà cửa. - Ông nắm lấy hai vai bà khi biết bà đang run lên không dám khóc to vì sợ các con thức dậy.
Trong cái ổ rơm bà vừa mới xin được ít rơm gạo tám còn thơm phưng phức hai con ông thằng Nhỏ và cái Gái vẫn ôm nhau ngủ. Người đàn ông nhỏ nhắn khẽ đưa tay mình vuốt tóc từng đứa trẻ, hai mắt nhòa lệ. Rồi ông đứng phắt dậy tay xách túi quần áo bọc trong chiếc khăn vuông đen. Bà đứng ở bậc cửa ngóng theo chồng, ngóng theo vệt chó sủa kéo tới tận đầu làng.

*
Làng Bến (xã Phụng Công) năm ấy làm đình. Có một tốp thợ từ Hà Tây - bên kia sông Hồng lục tục kéo sang xin việc. Đứng đầu là cụ phó Men - người cao lớn, đầu tóc bạc phơ. Sau khi thỏa thuận xong về công sá với ông Chánh phó Lý của làng, tốp thợ được thu xếp nơi ăn ở là dãy nhà của cụ Kế. Nhà lợp tranh, vách đất làm nối nhau từng gian một ngoảnh mặt ra ao Hàng Gà.
Trời đã bắt đầu vào thu. Bè rau muống trên mặt ao cũng đua nhau bật lên những nụ hoa tím tím. Ông phó Men thấy thằng Nhỏ ngày nào lấm lem ra ngoài bãi tát vét. Hôm thì cậu mang về một rá tôm càng, Hôm mang về một nồi cá dói. Những con cá lấm lem bùn đất phù sa tranh nhau cựa quậy. Ông Men cầm cây bút chì giắt trên tai hỏi cậu Nhỏ:
- Này Nhỏ, mỗi ngày cháu bán được mấy hào?.
- Dạ thưa ông năm hào. Có hôm bảy, tám hào.
Ông nhìn sâu vào đôi mắt sáng long lanh của cậu bé khẽ hỏi:
- Cậu có thích giúp việc cho ta không?
- Dạ...
- Ta trả cho cậu 1 đồng một ngày.
Nhỏ nói lý nhí:
- Nhưng... cháu biết làm gì cho ông ạ?.
- Rồi cậu biết. Ta rất nhiều việc, nhưng thôi được rồi, ta phải hỏi mẹ cậu đã.
Nói xong ông phó Men vội vã lên xem toán thợ đang đào móng khởi công làm đình.
Mấy ngày hôm sau ông phó Men sang gặp mẹ cậu Nhỏ. Người đàn bà thấp bé lúc này đã khỏe hơn nhiều. Bà đứng dậy rót bát nước vối lễ phép mời ông phó ngồi trên chiếc chõng tre, trong lòng vẫn còn sợ sệt lo con mình có lỗi với người lớn:
- Thưa ông, cháu có gì ông tha tội cho cháu.
Ông phó cười xua tay: "Không... không có gì cả. Là tôi muốn nói chuyện xin thằng Nhỏ giúp việc cho tôi".
Mẹ Nhỏ nghe đến đây mặt tươi tỉnh hẳn lên: "Em chắp tay lạy ông. Ông cho cháu theo nghề. Sau này cháu lên người em chẳng bao giờ quên ơn ông đâu".
Nói đến đây người đàn bà lại rơm rớm nước mắt. Bà kể lại chuyện chồng bà phải bỏ nhà ra đi, chuyện sưu cao thuế nặng, chuyện cầm cố nhà cửa... ông phó Men ngồi nghe xúc động thương cảm cho hoàn cảnh của bà.
Ông cảm thấy cần phải giúp đỡ gia đình này một việc gì. Đó là cho cậu bé học nghề, và cái bệnh tê so của mẹ cậu cần phải chữa chạy ngay.
Vốn là một ông thầy lang lại có nghề thợ nề, ông Men tự tay mình bốc thuốc đưa cho vợ mang sang sắc thuốc giúp mẹ cậu Nhỏ.
Một tháng sau, mẹ cậu Nhỏ đã đi lại được. Đêm đêm những cơn đau gân cốt cũng biến đâu hết, bà không còn vật vã mất ngủ.
Bây giờ là cả hai mẹ con cậu Nhỏ đã giúp việc được cho cánh thợ. Bà Hộ hàng ngày chợ búa cơm nước, còn cậu Nhỏ đã biết đánh vôi vữa khuân gạch cho thợ. Đời sống gia đình đỡ khó khăn hơn.

*
Đã vào tiết thu. Anh Hồ khoác tay nải quần áo đi suốt trong đêm. Sương muối lạnh đã thấm ướt đầu, rồi cả chiếc áo cánh nâu cũng như vừa bị ai tạt nước. Anh đi theo dọc bờ đê. Hễ thấy thấp thoáng bóng người là anh ngồi thụp xuống. Chờ họ đi qua anh lại tiếp tục đi. Anh đi nhằm hướng ga Gia Lâm (Hà Nội). Nơi có những con tàu băng mình trên đường sắt, nơi có những tiếng còi rú lên như con vật bị chọc tiết. Trời vừa tang tảng sáng thì sân ga đã hiện lên đắm chìn trong sương mờ.
Người gác tàu mặc bộ đồ xanh cũ kỹ, tay xách chiếc đèn bão thỉnh thoảng giơ lên giơ xuống như ra hiệu cái gì anh không hiểu. Anh ngồi bệt xuống phiến gỗ xếp ở sân ga, lấy hai tay bóp mạnh bắp chân cho đỡ mỏi.
Bỗng có một người vỗ vào vai anh hỏi:
- Đi đâu, sớm thế?
- Tôi lên ngược.
- Ồ... tàu chạy rồi. Còn vài giờ nữa có chuyến nữa. Giúp tớ một tay đi, tớ trả tiền.
Anh Hồ ngước nước mắt nhìn lên. Người này mặc bộ đồ tây, đầu đội mũ cát trắng, khuôn mặt thoáng nhìn lương thiện.
Anh hỏi nhỏ:
- Ông bảo tôi làm gì?
- Gánh thứ này lên tàu cho tớ. Nếu cậu lên ngược tớ cho cả vé tàu.
- Ông nói thật chứ?
Người mặc đồ tây rút ra từ trong túi tờ đồng bạc Đông Dương đặt vào tay anh:
- Làm đi! Đống muối đấy, chuyển lên toa đen kia. Làm nhanh còn được thưởng.
Anh Hồ tay run run nhận tờ đồng bạc. Với sức lực của tuổi ba mươi người nông dân đang săn gân, mạnh mẽ, một mình anh hì hục chuyển hết một đống muối vào toa tàu.
Bây giờ anh đã có tiền. Cầm đồng tiền trong tay anh nhớ tới người vợ đang ốm yếu, nhớ tới thằng Nhỏ và cái Gái. Lòng anh bỗng nôn nao như có ai gọi về làng. Nhưng không phải! Anh đang đói. Sực nhớ ra từ trưa hôm qua anh mới được một bát bánh đúc với mấy con cá dói ngoài đồng. Anh đi theo mấy người xích lô vào một quán cơm. Phải ăn no đã. Có thực mới vực được đạo. Anh gọi hai suất cơm liền. Người chủ hàng lật đi lật lại tờ đồng bạc Đông Dương rồi trả lại anh bằng những đồng hào. Anh đỡ lấy cẩn thận buộc vào túi quần, rồi ăn một mạch hết cả hai suất cơm ngon lành.
Chưa kịp uống một ngụm nước người chủ đống muối đã quay lại. Ông ta nhìn số muối được đổ gon gàng trong toa khẽ gật đầu hỏi anh.
- Có đi ngược không?
Anh Hồ đang ngần ngại người chủ muối nói luôn: "Nếu đi ở đây đợi tàu. Cậu áp tải đống muối này. Không phải trả tiền vé tàu lại được ăn uống no nê.
Anh Hồ chép miệng "Ừ thì đi nhưng cũng chưa biết làm gì ở đây".
- Thế cũng được. Cậu cứ theo ta có nhiều việc, nhiều tiền.


(Còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét