HOÀNG KIM
GIAO –
MỘT NGƯỜI
SỐNG HẾT MÌNH VÌ CÔNG VIỆC VÀ
TRONG TÌNH YÊU
Đinh Quốc Khải
Trong
mấy năm gần đây, bên cạnh việc xuất bản các cuốn nhật ký của Liệt sĩ Nguyễn Văn
Thạc và Liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm đang gây xúc động dư luận, một số báo như: An
ninh thế giới, Tiền phong, Thanh niên,… còn viết nhiều về liệt sĩ Hoàng Kim
Giao, một cán bộ trẻ của viện ta, đã
cống hiến tuổi xuân cho đất nước.
Qua
các bức thư anh để lại (sau gần 40 năm gia đình còn giữ được - và đã được in
thành sách ) mọi người đều thấy ở anh một con người sống vì lý tưởng, hăng say
học tập, rất dũng cảm và gương mẫu trong chiến đấu. Song trong cuộc sống nội
tâm lại rất tình cảm, luôn lo lắng từng phút cho gia đình và người thân. Học
tập tấm gương Hoàng Kim Giao, báo Tiền phong đã phát động phong trào viết về đề
tài “Sống để yêu thương và dâng hiến”. Sự phát động của báo Tiền Phong
đã được hưởng ứng, nhiều bài viết xúc động về liệt sĩ Hoàng Kim Giao đã được
đăng trên các báo.
Trong hồi ký của các cán bộ đã cùng làm việc
với anh Giao ở Phòng Nghiên cứu Điện tử ( anh Thái Quang Sa, anh Lưu Ngọc Phan
) đều nhắc về anh với lòng yêu mến, quý trọng. Anh Hoàng Kim Giao là người đầu
tiên hy sinh trong công trình nghiên cứu chống phá bom từ trường. Trong việc nghiên cứu đối phó với bom
từ trường, sau anh Giao các anh Ngô Trọng Tài và Lê Hoài Tuyên đã hy sinh. Các
anh đều là những cán bộ tài năng, những con người ưu tú của đơn vị và quân đội.
Trong bài viết này tôi muốn nói về anh Hoàng Kim Giao, một người luôn sống hết
mình trong công tác, trong học tập và trong cả tình yêu đối với gia đình.
Anh Hoàng Kim Giao sinh năm 1941,
Quê anh ở Hải Phòng, trong một gia đình có tám người con, anh là lớn nhất. Bố
anh là cán bộ quân đội, công tác ở Thành đội Hải phòng, sau chuyển sang làm bí
thư Đảng ủy nhà máy Cơ Khí Duyên Hải. Năm 1953, đoàn học sinh từ Hải Phòng sang
Trung Quốc học có bốn người: Hỷ, Ngọ, Thế và Giao. Sau nhiều ngày đi bộ mệt
mỏi, vừa đến Lạng Sơn thì đoàn bị máy bay Pháp ném bom. Sau trận bom, Thế hy
sinh, Hoàng kim Giao bị thương ở cánh tay.Từ năm 1953 đến 1958 anh học ở trường
thiếu nhi Việt nam ở Quế Lâm - Trung Quốc. Cũng từng là học sinh của trường này
lúc đó nên tôi hiểu rằng: trường “Quế Lâm” đã để lại trong anh một nếp sống tập
thể tốt đẹp, đầm ấm, tạo cho anh bước đi đúng đắn, vững chắc ban đầu để anh
bước tiếp những chặng đường sau này. Năm 1960 anh nhập ngũ và về học trường văn
hoá quân đội ở Lạng Sơn (nay là Đoàn 871 của quân đội ). Anh là trung đội
trưởng, thuộc đại đội1 của tiểu đoàn học viên đầu tiên của trường . Một số cán
bộ của Viện cùng học với anh lúc đó là các anh: Đinh Kim Dực, Nguyễn Hồng Vũ,
Tống Ngọc Kiên vẫn nhớ rõ những ngày cùng học với anh. Trong cuộc họp mặt kỷ
niệm 45 năm của các cựu học viên D1 vào
tháng 8 / 2005 vừa rồi, các anh nhắc đến anh Hoàng Kim Giao với nhiều kỷ niệm
khó quên, một trung đội trưởng gương mẫu, chịu khó, ít nói nhưng rất chăm học,
đặc biệt là học tiếng Nga. Sau này về học khoa Vật lý trường Đại học Tổng hợp
Hà nội ( khoá 1962 – 1966 ) anh tiếp tục học tiếng Nga (ngoại ngữ chính ở các
trường lúc đó) và còn học thêm tiếng Anh, tiếng Pháp. Còn tiếng Trung thì anh
đã có vốn khá vững từ khi học ở Quế Lâm,Trung Quốc, vì vậy Hoàng Kim Giao là
người khá về ngoại ngữ. Năm 1967 anh về công tác ở Phòng nghiên cứu Điện tử của
cục nghiên cứu Kỹ thuật (tiền thân của Viện ta). Anh luôn tranh thủ thời gian
để tự học, nâng cao trình độ và làm mọi việc với tinh thần trách nhiệm cao.
Cuối năm 1967 địch ném loại bom mới
xuống xã Thổ khối, Gia lâm, Hà nội, Viện KTQS kết hợp với bộ tư lệnh Công binh
tiến hành rà phá thử để kết luận về nguyên lý hoạt động của bom. Anh Giao được
Viện cử vào nhóm nghiên cứu này do anh Trương Ngọc Vĩnh chỉ huy. Tháng 9/ 1968
anh được Viện cử làm trưởng đoàn công tác (gồm: Hoàng Kim Giao, Lưu Tuấn Kiệt,
Phạm Văn Cư, Lương Ngọc Tước, Lê Văn Viện, Đặng Sĩ Mốc ) đi vào tuyến vận tải
thuộc bộ tư lệnh 500 trên địa bàn quân
khu 4 để huấn luyện và trực tiếp phá gỡ bom mìn, giải toả ách tắc giao thông ở
một số trọng điểm. Là kỹ sư trưởng đoàn, anh Giao đã thể hiện tinh thần chiến
đấu rất dũng cảm và gương mẫu, luôn động viên anh em cố gắng hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Tháng 12/1968, địch ngừng ném bom trên miền Bắc Việt nam, đoàn anh
Giao được lệnh của Viện trở về Hà nội. Chiều ngày 29/12 đoàn dừng chân ở xã Nam
Hưng, Nam
đàn, Nghệ an. ở đây còn một số bom từ trường chưa nổ, vì vậy cán bộ địa phương
đề nghị anh em giúp phá bom. Sau khi xem xét, anh Giao quyết định đoàn ở lại
phá gỡ số bom này. Ngày 30/12 đoàn chia thành hai nhóm, một nhóm do anh phụ
trách ( có Cư và Tín ) xử lý để tháo ngòi MK-42 ở quả bom phía ngoài. Nhóm thứ
hai do Kiệt phụ trách (có Tước và Viện) phá quả bom ở phía trong cách đó khoảng
700m. Đồng chí Phạm Văn Cư kể lại: “Hôm đó thấy anh Giao hơi mệt, vì tối hôm trước
anh và Tước nói chuyện với nhau rất khuya, tôi đề nghị anh đứng cảnh giới để
tôi cầm thuốc nổ lên xử lý bom, nhưng anh không đồng ý, anh nói: “ Quả bom này
hơi khó để mình trực tiếp làm, hơn nữa tớ biết cậu mới có con trai, cậu ở đây
cảnh giới để mình lên, cậu không được hy sinh để sau này con còn được gặp bố…”
Sau đó anh Giao cầm gói bộc phá nhỏ lên, đánh lần thứ nhất để đào đất làm cho
phích nối điện ở thân bom lộ ra. Sau đó anh ra hiệu cho chúng tôi ở dưới mang thêm bộc phá lên cho anh. Đồng
chí Lương Trung Tín (lái xe, thuộc bộ Tư lệnh 500) mang thuốc nổ lên, khi còn
cách bom vài mét thì bom nổ, anh Giao và Tín hy sinh tại chỗ. Ngay đêm đó địa
phương tập trung toàn bộ dân quân để thu gom di hài và làm lễ truy điệu hai anh
ngay tại nơi hy sinh. Anh Lưu Ngọc Phan viết trong hồi ký: “tại lễ tưởng niệm
liệt sĩ Hoàng Kim Giao ở Viện KTQS, cả đơn vị bùi ngùi xúc động thương nhớ anh,
thương nhớ người đảng viên chưa kết nạp của Đảng, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao…”
Tháng 7/ 2005, gần 40 năm sau khi
anh hy sinh, chị Hoàng Thị Kết, chị Hoàng Liên Thái (các em gái anh Giao), nhà
báo Đặng Vương Hưng và các đồng chí Phạm Văn Cư, Lương Ngọc Tước, Đặng Sĩ Mốc (
những đồng đội cùng đi với anh Giao năm 1968 ) đã tìm về đúng nơi anh hy sinh ở
Nam hưng- Nam đàn- Nghệ an để tưởng nhớ anh. Tại điểm quả bom nổ, các chị đã
lấy một ít đất, mang về Hải Phòng rải lên mộ của bố và mẹ để anh Giao trở về
quây quần bên bố mẹ thân yêu của mình.
Theo đề nghị của Viện, nhà nước
truy tặng thiếu uý liệt sĩ Hoàng Kim Giao huân chương chiến công hạng 2. Viện
KTQS đã ghi tên anh trong danh sách những cán bộ tham gia công trình “Nghiên
cứu chống phá thuỷ lôi từ tính và bom từ trường trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, từ 196 đến 1973”. Công trình được giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, năm 1996.
Ơ phòng truyền thống của viện Điện tử- Viễn thông, ảnh của anh và các liệt sĩ
khác được treo trang trọng dưới lá cờ đơn vị anh hùng.
Ngày 21 / 12 / 2009, chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết ký quyết định số 2054/QĐ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho Liệt sĩ Hoàng Kim Giao. Ngày 28 / 5 / 2010
Viện ĐT –VT làm lễ trọng thể đón nhận quyết định của Chủ tịch nước. Tham dự buổi lễ có tất cả cán bộ chiến sĩ của Viện,
người thân trong gia đình của anh Giao, các bạn bè và đồng đội của anh Giao.
Buổi lễ trang nghiêm, xúc động và ấm áp tình đồng đội, tô thắm thêm truyền
thống của Viện.
Để thêm tư liệu về tấm gương sống
trong sáng, thuỷ chung của anh Hoàng Kim Giao, xin đăng kèm ở đây bức thư cuối
cùng anh gửi cho bố mẹ, một bài thơ anh gửi tặng người vợ trẻ khi đang ở nơi
núi rừng xa xôi và hai bài thơ do các em gái anh viết về anh trai mình.
Bức thư cuối cùng anh Giao gửi bố mẹ trước lúc hy sinh
Ngày 11 /10 / 1968
Cậu Mợ
kính yêu
Trước khi đi công tác con không báo
tin được cho cậu mợ vì chỉ có một vài
giờ mà phải chuẩn bị nhiều thứ quá. Hôm nay, sau hơn một tháng làm công tác,
con nghỉ để chuẩn bị đi đợt mới con tranh thủ viết thư về để cậu mợ yên tâm.
Từ 29/9 con bắt đầu đi vào Khu 4. Hiện giờ con đang ở
Hà Tĩnh và sắp tới con sẽ đi vào Quảng Bình và sâu hơn chút nữa. Cùng đi với
con còn có 5 đồng chí chiến sĩ nữa. Đi để thu thập chiến lợi phẩm và phá bom nổ
chậm. Một tháng qua con đã phải đi khá nhiều đường đất vất vả và cả đói nữa;
nhưng cũng có nhiều điều đáng mừng. Con được đi tới những vùng ác liệt nhất của
chiến trường Khu 4. Ở đây có những quãng chỉ 2km phải chịu tới 5.000 quả bom. ở
đây có những đội thanh niên xung phong cùng với mặt đường phải chịu từng ấy bom
đạn và trong đội ngũ kiên cường đó những chiến sĩ phá bom là những người được
yêu quý nhất. Có những lúc phải phá bom trên sông, trước mặt bao cảnh thương
vong vì bom đạn giặc con vẫn dẫn đầu anh em bơi lội trên sông, phá thông luồng
lạch gây một niềm tin vững chắc cho các
chiến sĩ giao thông. Có những lúc phải phá bom mở đường ở các trọng điểm đánh
phá trên bộ, dưới làn bom đạn dày đặc của máy bay giặc Mỹ, bị sức ép nhiều lần,
anh em thương vong gần hết nhưng con của Cậu Mợ vẫn vững vàng tổ chức các đồng
chí Đảng viên gan dạ nhất phá sạch bom đạn giặc, cho xe thông đúng 12 giờ sau
lệnh ngừng bắn. Anh em lái xe trên tuyến
đường này đã dành cho chúng con những phần thưởng rất đáng quý.
Dù đứng giữa bom đạn giặc hay dưới làn mưa đạn máy bay
con của cậu mợ vẫn vững vàng tiến lên pháa trước. Cậu Mợ ạ! ở đây chuyện sống
chết đặt ra không phải từng ngày mà từng giờ một. Có đồng chí vừa thăm con nửa
tiếng sau đã bị hy sinh. Có lúc phải động viên sự hy sinh của từng người. Những
lúc đó như mọi người con cũng nghĩ tới chuyện sống chết. Con nghĩ nếu con hy
sinh thì trước mắt sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, không đầy dủ trách nhiệm với
các đồng chí cùng đi. Cậu Mợ và các em con sẽ thương nhớ con nhiều. Sức khoẻ
của Cậu Mợ cũng mau bị giảm sút. Tuy vậy không phải lúc nào con cũng được cân
nhắc tới chuyện sống chết và lúc đó con nghĩ rằng cần phải sống nhưng không thể
từ bỏ trốn tránh những hy sinh cần thiết và lúc đó con lại vững vàng tự tin
đứng giữa bãi bom.
Lệnh ngừng bắn đã tạo cho con thuận lợi lớn trong công
tác, nhưng những hy sinh của các chiến sĩ phá bom vẫn còn tiếp tục. Những lúc
đứng trước những quả bom nổ chậm hay chờ tiếng bộc phá nổ con nghĩ tới Cậu Mợ,
tới các em con ở xa. Cậu Mợ và các em
con có biết con sẽ thế nào không nếu quả bom nổ. Những lúc đứng giữa
cảnh chết chóc hoang tàn đó, con nghĩ nhiều đến hạnh phúc gia đình, nghĩ tới
ngày xum họp, nghĩ tới những ngày hoà
bình và con nghĩ tới ước mơ ngày về gặp mặt Cậu Mợ và các em con. Con cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để tết
các thể về với gia đình, ngày ấy nhất định sẽ có. Đến tết khi con về nhà, con
sẽ kể lại cho Cậu Mợ nghe những ngày tháng chiến đấu ngắn ngủi, thầm lặng của
con và con sẽ được ăn nhiều thứ, ăn đủ các loại rau. ở đây con chỉ được ăn toàn
đồ hộp lương khô, gạo rang, nước suối. Bao giờ tết về Cậu Mợ cho con ăn một bữa
xôi chè thật no như hồi bé lúc ở với Cậu Mợ con vẫn được ăn. Cậu Mợ kính yêu
của con! Cậu Mợ đừng lo cho con. Con làm việc với lòng tự tin và ý thức trách
nhiệm với tập thể và với những người thân yêu của con. Nếu người chiến sĩ công
binh không được sai sót một lần trong đời thì người chiến sĩ công binh ấy - con
của Cậu Mợ xứng đáng là người chiến sĩ công binh ưu tú. Cậu Mợ đừng lo lắng cho
con, Cậu Mợ giữ gìn sức khoẻ để tết về con được vui. Cậu Mợ bảo nhà con rằng
con không viết được thư cho nó nhưng chả lúc nào con không nghĩ tới nó cả. ở
đây tìm được tờ giấy, ngòi mực viết lá thư không dễ chút nào có khi đổi bằng máu
xương cơ. Cậu Mợ bảo nhà con tết khi nó được nghỉ cứ về luôn Hải Phòng để xe
đạp lại gửi cơ quan cho con, khi nào được về con sẽ đạp xe về, đừng ở Hà Nội
chờ con. Con mong Cậu Mợ được khoẻ mạnh, đừng lo lắng nhiều cho con. Con sẽ về
chỉ sớm hay muộn mà thôi.
Kính
thư, Con của Cậu Mợ
Bài thơ
tặng vợ
BÔNG HOA RỪNG
Anh đi giữa núi rừng trùng điệp
Chọn tặng em
một đoá hoa rừng
Đi đi mãi giữa rừng hoa đẹp
Không đoá hoa nào giống
những ước mong.
Cũng đã có những mùa phượng nở
Tóc người thương, gió biển quyện lời thơ
ánh trăng bạc và màu xanh biếc
Vẻ diệu huyền sáng những ước mơ.
Cũng đã biết những bông hồng rực rỡ
Hoa báo điềm
hạnh phúc tuổi yêu đương
Cánh
hoa nhỏ mong manh rực đỏ
Đã
nở rồi trong mắt người thương
Vạn
đoá hoa tươi trên đường chiến đấu
Càng
yêu thêm màu sắc cuộc đời
Anh
giữ mãi muôn màu rực rỡ
Cùng
cánh chim chao liệng biển khơi.
Cảm
ơn Đảng đã nuôi con khôn lớn
Đã
chỉ cho con màu sắc lá hoa
Đã
gieo giữa tim con hạt giống
Để
lòng con rực rỡ sắc hoa.
Anh
đi giữa núi rừng trùng điệp
Chọn
tặng em một đoá hoa rừng
Bông
hoa trắng như lòng em trong trắng
Giữa
rừng hoa rực rỡ trái tim anh
Ngày 25/4/1968
Bài thơ các em gái anh Giao viết về anh mình
Thăm anh
Hôm
nay chúng em đến thăm anh
Bốn
đứa chúng em, cùng ba cháu nhỏ
Khi
ra đi chúng em cũng tính toan đủ thứ
Có
nên chăng, rước anh về lại quê nhà
Khi
đến nơI rồi chúng em mới thực nhận ra
Chắc
không nơi đâu đẹp bằng mảnh đất anh đang yên nghỉ
Trước
mắt anh bát ngát cánh đồng xanh lúa
Sau
lưng anh vời vợi sao cờ Tổ Quốc Ghi Công
Xung
quanh anh đồng đội thật đông
Người
hữu danh, người vô danh đủ cả
Anh
ơi, xin cứ nằm đây yên nghỉ
Nam đàn – Nghệ an
địa linh hùng vĩ
Người
đến thăm quê Bác Hồ sẽ ghé thăm anh
Đất
anh nằm sẽ bớt lạnh quanh năm
Chúng em – những đứa em ở hai miền Nam Bắc
Luôn
nhớ về mảnh đất Miền Trung
Nơi
anh trai mình đang đêm nhớ ngày mong
Có
nỗi đau nào đau hơn thế.
Ngày 27 / 07 /
2001
Nỗi lòng cha mẹ
(Kỷ niệm ngày 3 chị em đi
thăm mộ
anh Giao 22 /12 / 2004 )
Tôi
còn nhớ ngày xưa có lần cha nói
“Mẹ
các con sinh tám người con
Cả
tám người đều đặn vẹn tròn
Thế cũnng đủ phong mẹ là anh hùng
rồi đấy”
Khi
xưa nghe vậy
Tôi
chẳng để tâm.
Rồi
tôi cứ lớn lên theo quy luật sinh tồn
Như
trời sinh voi, ắt trời sinh cỏ
Đến
khi không còn nhỏ
Nhất
là khi tóc đã trắng mái đầu
Tôi
mới thấy thương cha mẹ làm sao
Cha
tôi suốt đời không một lần than khổ
Dù
suốt một đời khốn khó vì con
Mẹ
tôi chưa một lần được sắm nữ trang
Cho
riêng mình, dù người rất đẹp
Đông
con đói nghèo ai mà không biết
Nhưng
cha mẹ vẫn vui vì có niềm tin
Tám
người con rồi sẽ lớn khôn
Thành
những người giỏi giang hữu ích
Tám người con là tám tấm huân chương trước ngực
Là
nguồn vui vô tận đến từng ngày
Nhìn
chim con lần lượt vỗ cánh bay
ánh
mắt hiền hoà của cha bừng sáng
Gương
mặt mẹ tươi hồng
Nhưng
cuộc đời đầy nghiệt ngã bão giông
Bởi
vốn nó vẫn thường như thế
Mẹ
gục xuống khi nghe tin kể
Con
chim đầu đàn dấu yêu của mẹ
Đã
bay xa và mãi mãi không về
Giá
mẹ được như bà mẹ ở xứ kia (*)
Để
đến bên mộ con thét gào, than khóc
Đòi
đất trả con vàng con ngọc
Đất
cũng chỉ lặng im không biết trả lời
Có
nỗi đau nào đau hơn thế mẹ ơi!
Còn
riêng cha nước mắt tưởng như vơi
Không!
Cha đã cố nén đau
Để
vuốt cho vơi đi nỗi đau của mẹ
Để
trấn an cả đàn con thơ bé
Đang
lo âu ngơ ngác sợ tan đàn
Nước mắt chảy ngược vào càng cào xé tâm can
Giá
khóc được thành lời
Chắc
cha sẽ đỡ đau như thế
Đau
vì thương con ra đi khi còn quá trẻ.
Càng đau hơn khi biết con ra đi không được vẹn toàn
Như
hình hài Cha Mẹ đã cho con
Hoà
bình rồi cả đất nước sẽ hân hoan
Nhà
nhà tưng bừng đón ngày hội mở
Nhớ
người con không bao giờ về nữa
Đau
thương trĩu nặng bốn vai gầy
Trăn
trở đêm ngày, tay lại nắm bàn tay
Cha
Mẹ dìu nhau trở về quê cha đất tổ
Dựng tạm mái nhà nơi đêm nghe ì ầm sóng vỗ
Cho
nguôi ngoai nỗi nhớ khúc ruột đầu
Và ấp ủ nỗi niềm nơi những khúc ruột sau…
Khi
tôi biết thương cha mẹ rồi
Cha
mẹ không còn nữa
_______________
(*) Bà mẹ ở xứ Cooc Don trong thơ Tố Hữu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét