NHỚ ANH NGÔ TRỌNG TÀI
Lưu Tuấn Kiệt
Vào
những ngày đầu năm (1969) anh Ngô Trọng Tài và tôi được cử vào Hà Tĩnh để huấn
luyện cho cán bộ cấp xã về phương pháp rà phá bom từ trường. Huyện đội Can Lộc
Hà Tĩnh lúc ấy đang sơ tán ở xã Xuân Lộc cách cầu Nghèn vài cây số. Do tình
hình cán bộ đông, nên Huyện đội Can Lộc đề nghị phân ra làm 2 nơi: Một tổ chức ở
Huyện do anh Tài phụ trách, còn tôi dạy ở cụm thứ 2 xã Sơn Lộc.
Thời đó mang tiếng là lớp học, nhưng phải tổ
chức ở ngoài trời. Bởi cả Huyện Can Lộc không còn một ngôi nhà nào để làm hội
trường, các cơ quan, trường học hầu hết đã bị bom Mỹ phá sập đổ.
Thường các đề cương tập huấn mỗi lớp
có hai phần: Về lý thuyết giới thiệu về nguyên lý, cấu tạo bom từ trường. Sau đó
là các biện pháp rà phá. Lúc bấy giờ Phòng Điện tử đã nghiên cứu thành công cách rà phá làm bom
nổ hàng loạt bằng khung dây nên lớp học tập trung thực hành phương pháp này. Thời
gian lớp học thường tổ chức trong ba
ngày: Một ngày học lý thuyết, hai ngày tìm hiểu địa hình rồi giáo viên cùng học
viên đánh nổ bom để minh chứng cho bài học.
Những ngày mới đến, anh Bát cùng anh
Tài (anh Bát cán bộ Huyện đội) tìm cho tôi một ngôi nhà “sang” nhất nhì xã Xuân
Lộc. Trước nhà có một cây hồng rất to, lá xanh tươi trùm bóng mát khắp sân. Anh
Bát giới thiệu: “đây là nhà O Hương”. Tôi chào O, mắt ngỡ ngàng thầm nghĩ “sao ở
đất này lại có được cô gái xinh đến thế? ”. Còn nhớ lúc đó anh Tài nhấp nháy mắt,
ra ngõ nói thầm với tôi: “Tốt ! dân vận nhiều vào cho các anh được nhờ!.” Tôi
chỉ cây hồng mùa này đã hết quả nói với hai anh: “Có khi ... hồng cuối vụ rồi
anh ạ?”
Anh Tài là một cán bộ khoa học nhưng
rất giỏi văn chương. Có lẽ ít ai đã thuộc toàn bộ cuốn Kiều của cụ Nguyễn Du như
anh. Những đêm nằm với tôi, anh thường đọc cho nghe vài đoạn Kiều, và chạm bất
kể một tích nào anh đều giải thích rành rọt. Tôi được biết Anh ở trong nhóm
biên soạn cuốn từ điển Nga Việt đầu tiên, ấy thế mà anh có ở nước Nga một ngày
nào đâu. Trong thâm tâm tôi luôn nghĩ anh là một người có tài, đúng với cái tên
mà các cụ đã đặt cho anh.
Dạo ấy trời Hà Tĩnh về đêm đã bắt đầu se lạnh. nhà O Hương lúc nào cũng có một bếp củi đỏ hồng. Buổi sáng anh Tài
sang nhà tôi bao giờ cũng được bà mẹ O Hương rang cho hai anh em mỗi người một
bát cơm với mắm cáy. Hạt cơm được rang giòn tan, rời từng hạt như cốm, mùi mắm
cáy bốc lên thơm ngào ngạt tạo thành hương vị khó phai mờ. Trong cái rét se se
của đất lửa miền Trung, có hơi ấm nồng nàn của than củi, anh Tài hay nói về Hà
Nội cho bà mẹ và O Hương nghe. Từ những chuyện vặt vãnh, cái tàu điện như thế
nào, làm sao lại chạy được, đến cái đài phát thanh cột ăng ten thật cao mà sao ở
đây đài thu lại lúc bổng lúc trầm, đối với gia đình này thật mới mẻ. Nhiều lúc
O Hương quên cả mình là thiếu nữ O len vào giữa, một tay ôm đầu gối anh Tài, một
tay khoác tay tôi mắt tròn xoe nghe những chuyện lạ.
Anh Tài người mập, giáng đi hơi nặng
nề, về tới đất này anh mới nói đúng giọng quê mình Can Lộc. Sắp tới ngày mở lớp, anh Tài nói với tôi : “Cậu
có về thăm quê tớ không? quê tớ chỉ cách đây có vài cây số thôi”. Tôi thích đi
lắm nhưng vì vướng cái đồng hồ đo điện U1 cũ kỹ không hiểu sao lại bị kẹt kim.
Qua ngày mai lớp bắt đầu học rồi, không chữa thì dậy học sao được? nên tôi đành nói
cho anh vui lòng ”Anh về quê đi. Hôm nào xong lớp anh em qua lần nữa để chào
làng xóm ”.
Lần ấy về quê anh vui vẻ lắm. Buổi tối anh kể tôi nghe
chuyện họ hàng với nỗi buồn quê nghèo thăm thẳm. Nhưng đó cũng là lần cuối cùng
- cuộc đời anh như một định mệnh.
Lớp học của anh Tài đã qua được một
ngày, xong phần lý thuyết. lớp học của tôi mở chậm hơn nửa ngày. Anh Bát cán bộ
huyện như con thoi, chạy đi chạy lại trông nom cả hai lớp. Ngày mai lớp anh
Tài, giảng viên và cán bộ khung phải đi thị sát địa hình và cho đánh nổ bom để
học viên tin tưởng vào bài học. Theo kế hoạch anh Bát trực tiếp làm với anh Tài
vào buổi sáng hôm ấy, xong công việc anh trở về lớp tôi vào buổi chiều .
Khoảng gần trưa (12 giờ) có một tiếng
nổ rất mạnh làm rung chuyển cả vùng. Tôi mừng thầm, bom đã nổ, lớp học của anh
Tài đã kết thúc tốt đẹp.
Gần một giờ sau, một chiến sỹ của
Huyện đội còn rất trẻ đến tìm tôi báo tin anh Tài bị thương đã đưa về bệnh viện
huyện ở Vĩnh Lộc.
Tôi bàng hoàng trong giây phút cố trấn
tĩnh lại trao đổi nhanh với đồng chí lớp trưởng tạm dừng lớp học buổi chiều, và
theo xe đạp tới bệnh viện. Hồi đó bệnh viện Huyện Can Lộc cũng phải sơ tán vào
trong làng, ở nhờ trong nhà dân. Tôi xuống xe chạy vào phòng cấp cứu. Người bác
sỹ nữ tầm trung tuổi bùi ngùi nói với tôi: “Anh Tài đã đi rồi”.
Lúc bấy giờ anh Bát vẫn trực anh Tài
ở nhà xác. Nhìn anh Tài nằm như ngủ, một bên đùi đã băng bó cẩn thận mà máu vẫn
còn thấm ra ống quần. Tôi nắm tay anh oà lên khóc. Anh Bát kéo tôi ra ngồi xuống
sân cỏ, anh cố gặng lời an ủi: “Cậu đừng buồn nữa, ở đây có sự định mệnh rồi.
Mình và anh Tài đi thị sát đã biết quả bom này ở vị trí nguy hiểm, vì nó nằm nổi
một nửa trên đất, xung quanh lại có đá. Sau khi căng dây xong anh Tài đã ngồi ở
vị trí cao hơn để điểm hoả. Nhưng không may... thật không may một hòn đá to bằng
cái mũ đã rơi trúng vào đùi anh. Chúng mình đã tập trung garô cho anh cẩn thận,
nhưng vì phải khênh anh ấy từ trên núi xuống, lại đường tới bênh viện rất xa
anh bị choáng, không qua khỏi ...”. Tôi bàng hoàng nhìn anh nằm kia, nước mắt đầm
đìa mà không khóc được. Anh Tài ơi, bom đã nổ đúng với lý thuyết mà bao ngày đêm
anh nghiên cứu, nhưng mất mát này nào ai có tin? Công việc mà anh để lại một
mình em sao gánh vác được?
Lúc ấy tôi gục xuống ôm lấy đầu gối
mình, quên mất cả mọi người đứng xung quanh đang chờ đợi để hỏi thăm hoàn cảnh,
gia đình người quá cố.
Đêm ấy, tôi thức với anh tại nhà xác
giữa cánh đồng xã Vĩnh Lộc trọn một đêm. Thỉnh thoảng tôi thắp một nén hương
cho ấm cúng và bắn lên trời một viên đạn K54 cho đỡ lạnh lẽo.
Có lẽ đó là một đêm để lại ấn tượng
sâu nhất ở tuổi 20 của tôi. Sáng hôm sau trong đoàn người đưa anh ra nơi yên
nghỉ cuối cùng, có vòng hoa của các cháu học sinh, có họ hàng người thân của
quê hương anh vừa mới về gặp mặt.
Tôi xin các đồng chí cán bộ huyện đội
Can lộc nghỉ hai ngày để ổn định sức khoẻ sau đó lại tiếp tục mở ba lớp huấn
luyện phá bom nữa. Vào một buổi chiều các anh Ngô Đức Thọ và Trương Ngọc Vĩnh
vào thăm tôi. Sao lúc này được gặp các anh tôi sung sướng thế. Các anh biết tôi
còn có lớp học không theo xe về được, anh Ngô Đức Thọ căn dặn: “Rút kinh nghiệm
của anh Ngô Trọng Tài, phải thật an toàn khi giảng cách phá bom trên thực địa.
không những chỉ an toàn cho mình mà cho cả học viên. Khi nào giảng xong cậu báo
cáo với huyện đội và về Hà Nội ” Anh Trương
Ngọc Vĩnh ôm lấy tôi, đưa cho tôi một cây bắp cải. Thời ấy laọi rau này ở
Hà Tĩnh hầu như không có. Tôi mang về bếp
trao cho các O trong ban hậu cầnh của lớp. Trưa hôm sau cả lớp được thưởng thức
một bữa cơm có canh bắp cải. Hầu như mỗi người chỉ giám chan nước canh có một lần
để nhớ cái vị thơm tho đặc sản của xứ Bắc.
Ngày 29 tết năm ấy (vào tháng 2 năm
1969) khoá huấn luyện rà phá bom từ trường của huyện Can Lộc kết thúc. Tôi
khoác ba lô từ Sơn Lộc về Xuân Lộc để chào mẹ và O Hương. Bà mẹ muốn giữ tôi ở
lại ăn tết với gia đình. Biết tôi lúc đi có 2 người lúc về chỉ một mình, O Hương
nắm tay tôi rơm rớm nước mắt, làm tôi xúc động nghẹn ngào. Hai chúng tôi cùng lặng
yên nhìn về phía xa xa cánh đồng Vĩnh Lộc nơi có anh Tài yên nghỉ. Mảnh đất quê
hương Hà Tĩnh đã sinh ra anh, giờ lại cho anh hoá thân vào hoa cỏ, để lại bao
nhớ thương cho người thân, đồng đội, bè bạn...
Văn Giang, 3/8/2005- LTKiệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét