21:06 |
29/04/2005
Theo Báo điện tử ĐCSVN
Cuối tháng 4-1972, trong đợt phá hoại miền Bắc lần thứ hai, Mỹ đã sử dụng phương tiện "chiến tranh điện tử" mới. Trước tình hình đó, Ban nghiên cứu thiết bị chống nhiễu do Tiến sĩ Trần Thức Vân (Viện Kỹ thuật quân sự) phụ trách, được thành lập với nhiệm vụ tìm cách "vô hiệu hóa" chúng.
Theo Báo điện tử ĐCSVN
Cuối tháng 4-1972, trong đợt phá hoại miền Bắc lần thứ hai, Mỹ đã sử dụng phương tiện "chiến tranh điện tử" mới. Trước tình hình đó, Ban nghiên cứu thiết bị chống nhiễu do Tiến sĩ Trần Thức Vân (Viện Kỹ thuật quân sự) phụ trách, được thành lập với nhiệm vụ tìm cách "vô hiệu hóa" chúng.
"Chiến tranh điện tử" là cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng ác liệt và gian khổ. Mỹ đã áp dụng kỹ thuật hiện đại để chống phá các thiết bị điện tử của ta. Ðối tượng chính của chúng là các lực lượng phòng không - không quân. Ðịch dùng thiết bị điện tử để "bịt mắt" ra-đa của ta, làm cho các đơn vị hỏa lực không phát hiện được hướng bay của chúng. Không quân Mỹ đã đưa ra ba biện pháp để bảo đảm cho máy bay là: tránh hỏa lực phòng không; gây nhiễu bằng trang bị máy móc hiện đại ngay trên máy bay hoặc từ máy bay yểm trợ để làm yếu hỏa lực phòng không của đối phương; đánh phá tiêu diệt các trận địa phòng không.
Làm thế nào để
"Vén màn nhiễu tìm thù" ? Ðây là nhiệm vụ hết sức mới đối với những
cán bộ khoa học của Viện Kỹ thuật quân sự. GS, TS, Thiếu tướng Trần Thức Vân,
nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự (xem ảnh) kể cho chúng tôi nghe công
việc của những nhà "khoa học chiến sĩ": Lúc đó Ban Nghiên cứu chúng
tôi bắt tay vào tìm hiểu hệ thống gây nhiễu từ các máy bay bị bắn cháy với các
thiết bị đơn sơ. Nói là nghiên cứu "chiến tranh điện tử" nhưng chúng
tôi hầu như chưa có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực đó. Từ năm 1967 chúng tôi đã
cùng Phòng Khoa học quân sự của Bộ Tư lệnh Phòng không khảo sát phần đầu của
tên lửa chống ra-đa (loại tên lửa tự bán theo cách sóng ra-đa để tiêu diệt
ra-đa) tên gọi là Srike "Chiến tranh điện tử" tuy vậy những thông tin
thu thập được còn hạn chế.
Mục tiêu của ban kỹ
thuật là: tập trung nghiên cứu tính năng chủ yếu của các thiết bị gây nhiễu và
tên lửa chống ra-đa của không quân Mỹ từ đó tìm ra nhược điểm của các thiết bị.
Sau đó báo cáo kết quả nghiên cứu lên cấp trên. Bộ Tư lệnh Phòng không xây dựng
các biện pháp chiến thuật chống lại nhiễu và tên lửa tìm ra-đa của địch. Thừa
kế những kinh nghiệm của Viện Kỹ thuật quân sự về nghiên cứu bom từ trường, Ban
Nghiên cứu đã sử dụng một phương pháp tổng hợp tức là sử dụng nhiều nguồn thông
tin để hỗ trợ nhau trước khi đưa ra kết luận. Mỗi lần cần khẳng định một vấn đề
nào đó vừa nghiên cứu xong, các thành viên trong Ban được tạo cơ hội hỏi cung
các phi công Mỹ tại "Khách sạn Hilton - Hà Nội", với các nội dung:
trên một máy bay có bao nhiêu máy gây nhiễu, bao nhiêu tên lửa chống ra-đa,
thời điểm phóng...
Nguồn thông tin
quyết định nhất để hiểu được cụ thể tính năng thiết bị là nghiên cứu từ vật
thực. Với một đống các thiết bị được cán bộ của Viện thu về từ xác những chiếc
máy bay bị lực lượng phòng không không quân bắn rơi cho dù bị cháy xém, lấm bùn
đất, nhưng rất có giá trị đối với những người làm công tác nghiên cứu. Một
thành viên trong Ban đã khôi phục được đèn phát nhiễu từ đó đo được công suất
của nó. Cùng với các thông tin thu được sau khi hỏi cung phi công Mỹ tại
"Khách sạn Hilton - Hà Nội" về đội hình máy bay, số lượng máy bay Ban
Nghiên cứu đã tìm ra cơ sở khoa học của việc hình thành các giải nhiễu trên mô
hình ra-đa, từ đó cùng với bên phòng không không quân có giải pháp "vén
màn nhiễu tìm thù" (câu nói của bộ đội ra-đa).
Kết quả nghiên cứu
thứ hai đáng được ghi nhận đó là qua tìm hiểu máy gây nhiễu LQ-87 các nhà khoa
học quân sự đã xác định được sự phân bố của nhiễu, hướng nào nhiễu yếu, hướng
nào nhiễu mạnh. Vùng nhiễu yếu được đặt tên là "vùng mù". Nhờ xác
định được "vùng mù" các nhà khoa học đã đề xuất phương án bố trí trận
địa phòng không sao cho đánh địch đạt hiệu quả cao nhất.
Ðến đầu năm 1972, Mỹ
đã sử dụng thủ đoạn mới là kết hợp tên lửa chống ra-đa và gây nhiễu. Khi có
nhiễu, bắt buộc ra-đa của ta phải mở để xác định mục tiêu. Ðiều đó tạo điều
kiện cho tên lửa chống ra-đa của địch mò theo mô hình sóng ra-đa, dễ dàng bắn
trúng các trạm ra-đa của ta. Ðể chống lại, bộ đội có giải pháp tắt mở đài ra-đa
liên tục. Tuy vậy, có nguồn tin cho rằng tên lửa của địch vẫn "nhớ"
được vị trí của ra-đa ngay cả khi ra-đa tắt. Sau khi nghiên cứu một quả tên lửa
chống ra-đa còn nguyên vẹn, Ban Nghiên cứu đã xác định tên lửa nói trên không
có bộ nhớ tín hiệu. Kết quả nghiên cứu đó đã chứng minh cho trắc thủ của ta
thông tin tên lửa chống ra-đa của địch có bộ nhớ chỉ là trò quảng cáo lừa bịp.
Ðể đánh giá hiệu quả
lực lượng phòng không, không quân nói chung, Ban Nghiên cứu thiết bị chống
nhiễu nói riêng của Viện Kỹ thuật quân sự, chúng tôi xin trích dẫn lời của
tướng E-đơ nguyên Tham mưu phó của không quân Mỹ ở châu Âu: "Chúng tôi cho
rằng bắc Việt Nam có một lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất trên
thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất kỳ một nước nào trong việc phóng
tên lửa SAM hạ máy bay. Họ cũng có kinh nghiệm hơn bất cứ một lực lượng quân sự
nào trong việc điều khiển ra-đa dẫn đường từ mặt đất".
Ghi nhận những thành
tích của các nhà khoa học quân sự, bộ đội phòng không, ngày 10-9-1996 Chủ tịch
nước đã ký quyết định số 991 KT/ CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt một cho
Bộ Tư lệnh Phòng không và Viện Kỹ thuật quân sự vì đã có thành tích trong việc
"nghiên cứu chống nhiễu trong cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ
ở miền Bắc 1968, 1969, 1970, 1972".
HÀ HỒNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét